Từ thuở xa xưa, trong cách đặt tên con của người Việt đã xuất hiện các cụm từ thường xuyên đệm trước tên chính như nam Văn nữ Thị, đây cũng là một nét truyền thống lâu đời được gìn giữ tới tận hôm nay.
- Những kiểu tóc biến quý bà ngoài 40 thành quý cô 30 được chuyên gia thế giới chọn lựa
- Trồng 1 cây cũng đủ tổn phúc, tiền của không cánh mà bay
- Những kiểu tóc xinh tươi dành cho nàng dịp cuối năm, hot nhất là gợi ý đến từ Jennie
- Tổ tiên đã dạy tảo mộ cuối năm cấm mang theo chuối, vì sao?Không nghe rước họa cả năm, ốm đau triền miên
- 5 sản phẩm dưỡng da nên cân nhắc để có một làn da khỏe mạnh và rạng rỡ năm mới
Điều này cũng giống như ở phương Tây, khi đọc tên một cá nhân, người ta có thể biết được đàn ông hay phụ nữ vì đặc trưng riêng của nó. Người Việt xưa cũng vậy, các cụ thường đệm chữ “Văn” cho con trai và chữ “Thị” cho con gái để giúp người khác có thể phân biệt giới tính ngay trong cách gọi.
Bạn đang xem: Người Việt đặt tên cho con thường đệm ‘nam Văn nữ Thị’, vì sao?
Tại sao lại như vậy?
Tên con trai thường đệm Văn
Trong tên người đàn ông Việt Nam có nhiều từ được sử dụng làm tên đệm, nhưng chữ Thị nhất định không bao giờ được sử dụng. Thông thường nhất vẫn là chữ Văn.
Ông bà ta từ xưa đã tương truyền câu nói “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nhằm muốn chỉ ra rằng một người con trai bằng mười con gái, bởi vốn dĩ trong các triều đại phong kiến, chỉ có đàn ông mới là thành phần được trọng dụng.
Họ được đi học, đi thi để có kiến thức sau này sẽ làm được việc lớn, cống hiến hiền tài cho quốc gia,gọi là người có chữ nghĩa.
Xem thêm : Những tác dụng làm đẹp từ cà chua, chị em nên tham khảo để cải thiện làn trước Tết
Do đó, chữ Văn thường đặt kèm trong tên đệm của đàn ông Việt được ví như ước mơ của bậc cha mẹ muốn con cái của mình là người có học thức, được công thành, danh toại, xây được nghiệp lớn.
Cuối cùng, thói quen đặt tên cho con trai dần được hình thành và ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ người Việt đến tận bây giờ.
Do đó, hiện nay nhiều người thường đặt tên con theo công thức sau: Họ + Văn + Tên.
Thậm chí, khi xã hội phát triển, một số phụ huynh vẫn giữa lại Văn trong tên của con như để nhớ đến cội nguồn cha ông, đồng thời mong ước con cái mình khi lớn lên sẽ có một tương lai, con đường sự nghiệp phát triển, thuận buồm xuôi gió.
Tên con gái thường đệm Thị
Nói một cách chính xác thì nguồn gốc chữ “thị” trong tên lót của nữ giới bắt đầu xuất hiện sau thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Về mặt nguồn gốc từ nguyên, theo học giả An Chi, “thị” là một từ Việt gốc Hán dùng để chỉ phụ nữ. Trong quyển Từ nguyên từ điển có câu “Phu nhân xưng thị” (đàn bà gọi là thị). Từ điển này cũng giải thích thêm từ “thị” còn là một từ mà phụ nữ dùng để tự xưng.
Hiện nay, có rất nhiều ý kiến tranh cãi xung quanh việc sử dụng chữ “thị” khi đặt tên cho con gái. Về chữ thị (氏), đây là một từ Việt gốc Hán. Thị nguyên gốc từ có nghĩa là họ (hoặc ngành họ). Thường người tàu dùng chữ “thị” sau họ của chồng người phụ nữ (not họ của bả) và ko dùng tên cúng cơm của người nữ đó nữa.
Xem thêm : 10 thói quen làm đẹp tưởng không hại mà hại không tưởng khiến bạn nhanh già trước tuổi
VD: Nàng Tô Thị là nàng vợ của ông họ Tô.
Nhưng khi sang đến Việt Nam thì có sự khác biệt: Đàn bà trong nhà quyền quý VN thì vẫn giữ họ cha và thêm chữ Thị phía sau. Ví dụ như Cù Hậu (xem lại bài lsu nước Nam Việt) khi chưa lên ngôi hoàng hậu thì gọi là Cù Thị (tức bà họ Cù) hay lâu lâu trong những tài liệu cổ ta vẫn nghe những danh xưng như: Hoàng hậu Dương thị, bà phi Nguyễn Thị… dịch ra là bà hậu họ Dương, bà phi họ Nguyễn vậy.
Chữ Thị là họ, nhưng chỉ 1 cá nhân riêng lẻ và chỉ dùng cho đàn bà đã lấy chồng. Để chỉ cả một họ số đông người ta dùng từ Gia (Diệp Gia, Tư Mã Gia, Viên Gia…) hoặc rộng hơn là Tộc, tiếng Việt gộp luôn 2 từ này tạo thành Gia Tộc.
Đến khi chữ Nôm bắt đầu sử dụng rộng rãi và khi văn hóa Việt Nam bắt đầu hình thành một đường lối riêng thì chữ “thị” chỉ người phụ nữ lại đứng trước tên riêng của họ, vd: Thị Mầu, Thị Kính… và đến khoảng thế kỷ 15 thì chữ Thị đi luôn vào tên và họ của con gái, như một cách khẳng định về gốc gác của người đó, giống như trường hợp chữ văn ở trên.
Đến khoảng thế kỷ 15, chữ Thị dần gắn liền với tên và họ của nữ giới, như một cách khẳng định gốc gác của người đó, tạo thành công thức đặt tên: Họ + Thị + Tên.
Tuy nhiên, ngày nay công thức đặt tên “nam Văn, nữ Thị” dường như đã được thay đổi ít nhiều. Do làn sóng hội nhập quốc tế, văn hóa phát triển nên mọi thứ đã dần được đổi khác. Có không ít gia đình đã sử dụng các tên đệm khác có ý nghĩa đẹp hơn để kết hợp với tên chính thức.
Tuy nhiên, nói đi nói lại, cách đặt tên “nam Văn nữ Thị” vẫn tồn tại như một điều đã ăn sâu vào thói quen và văn hóa của người Việt đến tận bây giờ.